Sunday, December 31, 2000

Nỗi ám ảnh mang tên `bệnh gút`

Bệnh gút, còn gọi là bệnh thống phong hay bệnh viêm khớp do gút, Thường gặp tại nam giới tuổi trung niên trở lên. Ở các nước phát triển, tỉ lệ mắc bệnh gút chiếm 1 - 2% dân số.

Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, cộng với chế độ dinh dưỡng thiếu hợp lý, bệnh gút ngày càng phổ biến và tuổi mắc bệnh cũng ngày càng trẻ hơn. Bệnh gút cốt yếu gặp ở nam giới. Bệnh cũng có yếu tố di truyền, ví dụ trong gia đình bạn có người mắc bệnh gút thì bạn sẽ có nguy cơ bị bệnh này cao hơn người khác.

Chẩn đoán bệnh gút không khó

Bệnh gút thường diễn biến qua 4 giai đoạn:

Giai đoạn 1: nâng cao acid uric-máu không triệu chứng, diễn biến trong nhiều năm.

Giai đoạn 2: cơn gút cấp với sưng đau ở khớp, thường là khỏi sau 3 - 10 ngày điều trị, nếu không điều trị thì các cơn đau sẽ xuất hiện ngày một nhiều và nặng hơn.

Giai đoạn 3: bệnh gút giữa các cơn gút cấp. Bệnh nhân không đau, khớp hoạt động bình thường.

Giai đoạn 4: gút mạn tính với sự lắng đọng tinh thể urate ở khớp, thận... Khớp bị biến dạng với hư hại xương và sụn; bệnh nhân có thể bị viêm thận, sỏi thận, suy thận; có hiện tượng các cục tophi quanh khớp làm mất thẩm mỹ và có thể gây tàn phế.

Cơn gút cấp có đặc điểm khởi phát đột ngột, thường vào ban đêm với biểu hiện sưng, nóng, đỏ, đau dữ dội ở một hay nhiều khớp, thường gặp nhất tại khớp bàn - ngón chân cái.

Bệnh gút có thể ảnh hưởng tới các khớp khác như: mu bàn chân, cổ chân, gót, đầu gối, gân gót, cổ tay, ngón tay, khuỷu.

Về xét nghiệm, chọc hút dịch khớp rồi soi dưới kính hiển vi sẽ tìm thấy các tinh thể urate; chụp X-quang có thể thấy hình ảnh hủy xương, tổn thương mặt khớp; xét nghiệm máu có thể thấy nồng độ acid uric nâng cao cao. Tuy nhiên, trong cơn gút cấp, nồng độ acid uric - máu có thể vẫn bình thường, bởi vậy không sử dụng xét nghiệm máu để loại trừ chẩn đoán gút cấp.

Tuân thủ nghiêm túc chế độ điều trị mới khó

Có ba nguyên tắc cần biết trong điều trị bệnh gút, đó là: chống viêm khớp trong đợt cấp, dự phòng đợt cấp tái diễn, và hạ acid uric - máu sau lúc đã qua đợt cấp dựa vào chính sách ăn uống và dùng thuốc giúp giảm tổng hợp hoặc tăng đào thải acid uric.

Theo đó, những người bị nâng cao acid uric-máu nhưng không có biểu hiện viêm khớp thì chỉ cần điều chỉnh chính sách ăn uống mà chưa cần phải dùng thuốc. Điều cần yếu nhất trong điều trị bệnh gút để tránh cho bệnh không diễn biến nặng lên nhanh là người bệnh cần được luôn tuân thủ nghiêm ngặt các chỉ dẫn của thầy thuốc về chế độ điều trị, bao gồm thuốc men và chính sách ăn uống, nghỉ ngơi.

Trong thực tế, không ít người bị bệnh gút thường chỉ quan tâm tới bệnh và sử dụng thuốc trong đợt cấp, sau đó thì ngưng, dẫn đến bệnh tiến triển nặng dần và gây ra các biến chứng. Trong đợt gút cấp, người bệnh cần phải nghỉ ngơi tại giường, sử dụng các thuốc kháng viêm không steroid và đặc biệt là sử dụng Colchicine (có tác dụng chống viêm, giảm đau và giảm sưng trong các cơn gút cấp). Sau khi đã qua đợt cấp, nghĩa là khi khớp đã hết sưng đau, người bệnh cần dùng thêm các thuốc giúp làm hạ acid uric-máu như Allopurinol (có tác dụng ngăn ngừa sự tổng hợp acid uric trong cơ thể, có thể dùng lâu dài), Probenecid (có tác dụng nâng cao cường sự đào thải acid uric qua nước tiểu). Đặc biệt, trong suốt quy trình điều trị cũng như vào lâu dài, người bệnh cần tuân thủ nghiêm ngặt chính sách ăn kiêng dành cho người bị bệnh gút. Ngoài ra, các bệnh nhân bị gút mạn tính cần phải kiểm tra chức năng thận và sỏi thận định kỳ. Béo phì là 1 yếu tố làm nâng cao nặng đối với bệnh gút. Do đó, các bệnh nhân bị bệnh gút kèm béo phì cần phải nỗ lực giảm cân, thông qua chế độ ăn uống và tập luyện thể dục thể thao.

Có một số trường hợp bệnh nhân gút cần phải điều trị bằng phẫu thuật như: cắt bỏ khối u tophi lúc khối u quá lớn gây ảnh hưởng thẩm mỹ hoặc chức năng của chi thể, mổ nội soi cắt lọc hoạt mạc viêm, nạo bỏ các tinh thể urate trong khớp, thay khớp nhân tạo lúc khớp đã bị bệnh gút phá hủy hoàn toàn.

Phòng bệnh còn khó hơn

Ngày nay, người ta đã biết rõ các nguyên nhân làm gia nâng cao bệnh gút trên toàn thế giới, từ đó có thể đề bộ phận bệnh gút. Các nguyên do này bao gồm:

- Ăn nhiều thực phẩm chứa purin như hải sản, các loại thịt có màu đỏ (thịt trâu, bò, ngựa, dê, thịt thú rừng…), phủ tạng động vật (lưỡi, lòng, tim, gan, thận, óc…), trứng gia cầm (nhất là các loại trứng đang trở thành phôi như trứng vịt lộn), những thực phẩm giàu đạm khác (bao gồm đạm động vật như thịt heo, thịt chó, thịt gà, thịt vịt… cá và các loại thủy sản như lươn, ếch…).

- Uống nhiều bia, rượu mạnh, cà phê làm nâng cao tích lũy acid uric trong máu và làm dễ lắng đọng urate ở khớp. Uống nhiều nước ngọt có ga làm tăng nguy cơ béo phì. Do đó, người bị bệnh gút mạn tính nên uống nhiều nước, thấp nhất 2,5 - 3 lít nước mỗi ngày, nhất là nước khoáng không ga có độ kiềm cao sẽ giúp làm giảm nồng độ acid uric trong nước tiểu, hạn chế sự kết tinh urate tại ống thận, từ đó làm giảm nguy cơ bị sỏi thận.

- Béo phì, cao huyết áp, rối loạn mỡ-máu là các nhân tố nguy cơ và đồng thời là các bệnh lý thường đi kèm với bệnh gút, nếu như kiểm soát rất tốt sẽ góp phần làm giảm nhẹ triệu chứng gút.

- Suy giảm chức năng thận làm giảm khả năng đào thải acid uric qua đường nước tiểu và gây lắng đọng urate tại các khớp.

ThS.BS. NGUYỄN ĐỨC THÀNH

(Phân khoa Xương khớp , BV. Đại học YD TP.HCM)

Món ăn, thuốc bổ từ cá chépMón ăn, thuốc bổ từ cá chép10 huyệt vị trị cảm cúm10 huyệt vị trị cảm cúmChế độ ăn tại người suy timChế độ ăn ở người suy tim

(SKĐS cuối tuần)

0 comments:

Post a Comment